Ninh thị chỉ sợ những quý nữ khác cảm thấy nàng ấy đến từ chốn nhỏ, nói nàng ấy quê mùa, xa lánh nàng ấy. Một mình ở nơi này mà đến tìm một người để kể khổ cũng không tìm được thì thà rằng quay về Nhữ Lâm.
Cố Tương Quân gật đầu, vành mắt hơi đỏ: “Nữ nhi đã nhớ.”
Ninh thị đã dặn dò nhiều, chuyện khác đành xem tạo hóa của hai đứa.
Ngày hai mươi tháng bảy, Cố lão gia, lão phu nhân, Ninh thị dẫn theo đầy tớ và quà cáp mà Trịnh thị chuẩn bị quay về Nhữ Lâm, trên dưới phủ Vĩnh Ninh Hầu đều ra cổng chính đưa tiễn, đến khi xe ngựa rời đi, hầu phủ lại quay về vẻ im ắng.
Về đến Nhữ Lâm đã gần cuối tháng bảy, thêm nửa tháng nữa là Trung thu mười lăm tháng tám.
Sau khi mọi người đi, Cố Tương Quân không vội đến viện mới mà vẫn luôn đi theo Lục Cẩm Dao, bám theo như chiếc đuôi.
Nàng ấy chỉ thân quen với Lục Cẩm Dao, những tẩu tẩu khác đều là quan hệ gặp nhau thì gật đầu chào. Hơn nữa, bên chỗ tứ tẩu tẩu có Khương Đường, nàng ấy thích nói chuyện với Khương Đường.
Cố Tương Quân sắp chuyển đến viện khác, Trịnh thị điều sáu nha hoàn cộng thêm hai người của nàng ấy nữa, tổng cộng là tám người, còn có phòng bếp nhỏ riêng, ở khá thoải mái.
Sau này Cố Kiến Hiên đến thư viện, cậu không quen có nha hoàn hầu hạ nên tạm ở lại Thọ An Đường.
Sau khi tiễn người đi, Cố Tương Quân theo Lục Cẩm Dao về nội viện, trong lòng nàng ấy không mấy thoải mái, luôn cảm thấy trống rỗng. Lục Cẩm Dao thấy vậy, nói với nàng ấy: “Buổi trưa cùng ăn với ta đi, tứ ca muội không ở nhà, một mình ta cũng buồn, sau này cứ đến thường xuyên.”
Cố Tương Quân vội gật đầu: “Cảm ơn tứ tẩu.”
Yến Kỉ Đường thêm một Cố Tương Quân không có ảnh hưởng gì đến ngày thường, từ góc nhìn của Khương Đường, Cố Tương Quân dịu dàng đáng yêu, cũng hiểu chừng mực, khách như thế này ai cũng thích.
Chỉ có điều sau hôm nhận được tờ giấy, trong phủ vẫn luôn gió êm sóng lặng, không nghe nói Cố Kiến Sơn sắp hỏi chuyện cưới xin.
Nếu đã không có chuyện gì, hà cớ gì Cố Kiến Sơn lại nói vậy.
Đến tối hôm hai mươi ba, lúc nha hoàn rỗi việc ngồi với nhau buôn chuyên, Bạch Vi nói: “Nghe bảo Thánh thượng sắp ban hôn cho Ngũ công tử, là tiểu nương tử của phủ Minh quốc công.”
Minh quốc công là nhà mẹ của đương kim Tứ hoàng tử, mẫu phi của Tứ hoàng tử là cô mẫu của tiểu nương tử phủ Minh quốc công, có người phỏng đoán, phải chăng Hoàng thượng có ý lập Tứ hoàng tử làm trữ quân.
Hoàng hậu đã đi, nhưng không hề lập Thái tử.
Mấy vị hoàng tử đều đã đến tuổi, Hoàng thượng ngày càng lớn tuổi, e là chiều gió sắp đổi.
Nha hoàn bình thường nào hay mấy chuyện này. Bạch Vi cũng nghe được từ chỗ người khác: “Các ngươi nói xem, cô cô của tiểu nương tử Minh gia là Minh quý phi trong cung, Tứ hoàng tử lại là biểu huynh của tiểu nương tử Minh gia, vậy sau này Ngũ công tử cũng phải gọi Tứ hoàng tử là biểu huynh.”
Bạch Vi không hiểu chuyện trong triều, nhưng nàng nói thế cũng không sai.
Bội Lan òa lên: “Vậy đúng là hoàng thân quốc thích rồi, không biết tiểu nương tử của Minh gia trông ra sao?”
“Nghe bảo Minh quý phi đẹp lắm, nàng ấy chắc chắn không kém phần.”
Khương Đường không biết tiểu nương tử của Minh gia ra sao, nhưng nàng biết người cuối cùng ngồi lên hoàng vị không phải Tứ hoàng tử mà là Lục hoàng tử.
Ở phần sau, Cố Kiến Châu sẽ lên “thuyền” của Lục hoàng tử, Cố Kiến Châu là nam chính, lại có Lục Cẩm Dao hỗ trợ nên cả đường thuận buồm xuôi gió.
Thật ra, cho dù Cố Kiến Sơn không để lại tờ giấy kia, Khương Đường cũng có thể ngẫm hiểu được.
Lần này Cố Kiến Sơn quay về, có lẽ không chỉ để dưỡng thương mà còn có chuyện khác phải làm.
Đám nha hoàn cực kỳ có hứng thú đối với loại chuyện như bí mật hoàng gia, đến cả chuyện Hoàng thượng yêu chiều Minh quý phi thế nào, thương yêu Tứ hoàng tử ra sao cũng đều nói ra hết.
Thỉnh thoảng Khương Đường chêm vào một câu, nếu đã biết chuyện này là giả thì nàng cũng không cần lo lắng làm gì.
Cố Kiến Sơn đã nói vậy, Khương Đường sẽ không suy nghĩ linh tinh.
Không có chuyện gì thì nàng vẫn như thường ngày, trông cửa hàng, luyện chữ, đọc giấy thiếp, nghĩ cách nấu nấm ngon.
Lục Cẩm Dao thì trái ngược, trong lòng nàng ấy đã mắng đi mắng lại Cố Kiến Sơn mấy bận liền.
Không có lửa sao có khói. Nếu hoàng thượng không muốn ban hôn, sao lại truyền ra kiểu lời này. Nam nhân toàn có một đức tính, Cố Kiến Thủy đến Tương Thành còn dẫn một ngoại thất về, Cố Kiến Sơn chân trước vừa nói người bản thân thích mới là quan trọng nhất, chân sau đã có Hoàng thượng ban hôn. Thật đúng là mở miệng nói một câu mà đến nửa câu cũng chẳng tin được.
Sao nam nhân có thể như thế, may mà bây giờ chưa xảy ra chuyện gì, Khương Đường không chịu thiệt, nếu không thì trong lòng Lục Cẩm Dao sẽ càng buồn phiền.
Nếu Trịnh thị muốn cho Cố Kiến Sơn đi xem mặt, Lục Cẩm Dao còn có thể đi nghe ngóng, nhưng Trịnh thị không thể làm trái lệnh, Lục Cẩm Dao không tin Cố Kiến Sơn sẽ kháng chỉ vì Khương Đường.
Nhưng ngẫm lại thì không thể trách hắn được, công tử của hầu phủ nên xứng với nữ tử thế gia, nhưng sao lại là tiểu nương tử của Minh gia. Người bạn thân thiết của Lục Cẩm Dao là Sở Hàm Ngọc, nàng ấy cũng có giao hảo với An Dương, sau quen biết với An Ninh quận chúa, nhưng trong vòng mấy người này thì không có Minh tiểu nương tử.
Vật hợp theo loài, người phân theo nhóm, Lục Cẩm Dao từng gặp Minh Nhan Thư hai lần, chỉ có thể nói là không cùng một kiểu người, nghĩ đến chuyện làm chị em dâu của nàng ấy khiến Lục Cẩm Dao đau đầu.
Thánh thượng ban hôn, dù coi trọng thế nào cũng không nên là người của Minh gia, vậy chẳng phải là cố ý để cho kẻ khác thấy ư, ông ta để tâm đến Tứ hoàng tử sao?
Không phải cố ý để kẻ khác thấy mà là thả lời đồn, có ban hôn hay không thì nói sau, để cho người đời phỏng đoán.
Lục Cẩm Dao cảm thấy sẽ không ban hôn, sao Thánh thượng có thể để người nắm binh quyền như Cố Kiến Sơn dính líu đến mấy vị hoàng tử được.
Nếu như chuyện ban hôn là giả, vậy thì tin này từ đâu truyền đến, là vì điều gì.
Lục Cẩm Dao nghĩ mãi mà chỉ có thể lờ mờ mò được một chút. Sáng sớm ngày hôm sau bèn sai Hoài Hề gửi cho phủ Bình Dương hầu một lá thư, chớ có dính dáng đến Tứ hoàng tử quá nhiều. Nếu trong nhà có người thân thiết với đảng của Tứ hoàng tử thì ở trong nhà an phận mấy ngày, xem chừng thế nào rồi nói tiếp.
Hoài Hề cất thư sát bên mình: “Nô tỳ đi ngay giờ.”
Lục Cẩm Dao ngăn người lại: “Ngươi quở trách đám nha hoàn bên dưới một phen, chớ có khua môi múa mép. Không ai được nhắc chuyện này lại nữa, nhất là Bạch Vi.”
Bạch Vi giỏi nghe ngóng tin tức, nhưng tin gì cũng nghe thì không tốt.
Lục Cẩm Dao không cách nào nói với Khương Đường chuyện này được, chỉ có thể bảo đám nha hoàn bên dưới bớt miệng. Hơn nữa, nếu Thánh thượng thật sự ban hôn thì ngăn cũng chả ngăn được. Mọi bề vẫn chưa xảy ra chuyện gì, nàng ấy phải trông chừng Khương Đường để nàng không làm ra chuyện ngu ngốc gì.
Lục Cẩm Dao lo lắng chuyện này, nhưng Khương Đường không khác gì ngày thường, làm việc lanh lẹ linh hoạt, chuyện trang hoàng cửa tiệm mới đã được non nửa, thêm mười ngày nữa là có thể trang trí xong, mở cửa hàng mới.
Trịnh thị thì ngược lại, không ngồi yên được.
Rất ít khi Trịnh thị đến Yến Kỉ Đường, cũng hiếm khi tới viện khác. Ngày thường con trai, con dâu sớm chiều thăm hỏi, có chuyện gì cũng tiện đường nói luôn, nhưng Lục Cẩm Dao có thai, bụng cũng đã to, không tiện đi lại nên Trịnh thị tự tới.
Trịnh thị cau mày, cho lui đám nha hoàn rồi mới hỏi Lục Cẩm Dao: “Con có biết tiểu nương tử của phủ Minh quốc công không? Sao ta nghe nói rằng… hình như là mười bảy hay là mười tám…”
Lục Cẩm Dao thấy khóe miệng Trịnh thị nổi lên hai mụn nóng, người cũng khô khốc, sắc mặt vàng vọt, sợ là cả đêm không ngủ: “Mẫu thân, tạm thời người đừng nóng ruột, uống chút trà đã.”
Lục Cẩm Dao đứng dậy ra ngoài, sai Bạch Vi đổi trà hoa quả ở trên bàn thành trà hoa cúc, đến khi trà lên thì rót cho Trịnh thị một chén, lúc này mới từ từ nói chuyện.
Lục Cẩm Dao cúi đầu nói: “Con và Minh Nhan Thư rất ít gặp gỡ, xưa nay chỉ kính trọng chứ không gần gũi. Nhưng nghe người khác nói nàng ta ưa chơi trội, tính tình cũng không tốt lắm.”
Tiểu nương tử như thế ở Thịnh Kinh rất ít, Lục Cẩm Dao cũng không thích tính tình như vậy, nói dễ nghe thì là chơi trội, khó nghe thì là ngang ngược.
Cô mẫu là Qúy phi đương triều, biểu huynh là hoàng tử, phụ thân có thực quyền trong triều, thân phận như này thì chỉ nhìn chứ chẳng thể đến gần.
Lục Cẩm Dao cảm thấy không được chọn xuất thân. Nhưng nữ tử như vậy mà làm con dâu của phủ Vĩnh Ninh Hầu thì không phù hợp.
Xem ra Trịnh thị cũng không vừa lòng.
Đương nhiên là Trịnh thị không vừa lòng, có thể nói Yến Minh Song hoạt bát đáng yêu, tính cách chân thật, nhưng Minh Nhan Thư… người ta nói gả chồng phải gả cao, lấy vợ phải lấy thấp, chuyện này phải làm sao mới ổn?
Từ khi biết tin này, Trịnh thị không thở nổi.
Lục Cẩm Dao nói: “Thánh thượng chưa hạ chỉ, chỉ là lời đồn thổi, mẫu thân đừng vì mấy lời này mà phiền nhiễu. Con dâu cảm thấy chuyện này không thành được đâu.”
Lục Cẩm Dao từng nghĩ, chi bằng nói thẳng với Trịnh thị, muốn Thánh thượng không ban hôn thì định chuyện cưới hỏi cho Cố Kiến Sơn trước là được.
Hơn nữa trước khi ban hôn nói là bản thân đã có hôn sự, mà không có nhà nào đồng ý đối địch với Tứ hoàng tử, đến khi ấy nhân cơ hội nhắc đến Khương Đường, Trịnh thị thì có bệnh vái tứ phương, biết đâu sẽ đồng ý.
Nhưng cách này không được ổn thỏa, lấy vợ là chuyện lớn, Lục Cẩm Dao biết rõ chuyện này là giả. Hay nói như thế này, đến khi chuyện này trôi qua, Trịnh thị không những không cảm kích Khương Đường mà rất có khả năng sẽ trở mặt.
Lục Cẩm Dao đã thấy loại chuyện này nhiều rồi.
Chả trách hôm đó Cố Kiến Sơn nói, tứ tẩu nói thế thì ta yên tâm.
Vả lại, Cố Kiến Sơn chưa nói gì cả. E là chưa ngờ đến mặt này.
Thế nên bây giờ Lục Cẩm Dao chỉ có thể cố gắng vỗ về Trịnh thị. Nói thêm chuyện sau khi Minh Nhan Thư gả tới, để Trịnh thị cảm thấy rằng không phải quý nữ danh gia nào cũng được.
Trịnh thị: “Sao lại không thành được! Hoàng thượng thật sự có nỗi lòng, tiện miệng nhắc một cái là thánh chỉ, ắt hẳn có hỏi lão Ngũ, nếu không sẽ không truyền ra mấy lời này…”
Lục Cẩm Dao lộ vẻ mặt khó xử: “Nhưng mà, Thánh thượng hạ chỉ thật thì chúng ta cũng không cản nổi. Cưới vợ nào phải chuyện kết thân hai người, còn có phủ Ninh quốc công và phủ Vĩnh Ninh Hầu. Lấy ai cưới ai thì bản thân cũng không làm chủ được. Bây giờ Minh tiểu nương tử có tính tình như vậy, sau khi gả đến thì người chăm sóc dạy bảo một phen, có lẽ có thể tốt lên.”
Trịnh thị đang lung lay sắp đổ, Lục Cẩm Dao không dám nói quá nhiều, vội vàng rót trà cho Trịnh thị. Nàng ấy nói cũng không sai, thật sự ban hôn thì con dâu thế nào cũng phải nhận.
Nhưng điều Trịnh thị sợ chính là gia thế của Minh thị quá cao, nếu ngày sau Tứ hoàng tử xảy ra chuyện thì Minh gia sẽ bị xử lý đầu tiên, tuy nữ nhi đã gả đi không còn liên quan đến nhà mẹ đẻ nhưng kiểu gì cũng sẽ liên lụy đến phủ Vĩnh Ninh Hầu…
“Đừng dọa ta, nãy con nói chuyện này không thành được, cớ gì lại nói như vậy?”
Lục Cẩm Dao nói với Trịnh thị về cách của mình một lần: “Vì chỉ có tin đồn chứ không có gì khác, thế nên càng không làm được gì nhiều, nếu mẫu thân nóng ruột có thể đi hỏi ngũ đệ.”
Hỏi Cố Kiến Sơn thì chẳng phải sẽ biết mọi thứ ư, có lẽ không hỏi ra được gì. Nếu không hỏi ra, vậy thì chứng minh không có gì cả.
Gió hè thổi khiến cả người Trịnh thị hanh nóng, bà tin Lục Cẩm Dao: “Ta vẫn không nên làm loạn cho nó thì hơn, mấy ngày nay nó đi sớm về khuya, lòng ta như thắt lại.”
Có khi Trịnh thị mong Cố Kiến Sơn ở Tây Bắc, trong bốn đứa con dâu thì Trịnh thị cảm thấy Lục Cẩm Dao tốt số nhất, bà định bụng ngày mai sẽ đến Phổ Đà tự thắp nén hương, cầu xin Phật Tổ.
Trịnh thị ngồi ở chỗ Lục Cẩm Dao gần nửa ngày, hỏi sức khỏe nàng ấy thế nào, Lục Cẩm Dao ăn ngay nói thật: “Thỉnh thoảng thấy mệt, buổi tối chân sẽ bị chuột rút. Hài tử đã biết động đậy rồi, Cố Kiến Châu không ở nhà nên không hay.”
Lúc nhìn bụng, vẻ mặt Lục Cẩm Dao mềm dịu.
Trịnh thị nắm tay Lục Cẩm Dao: “Mấy ngày nay vất vả cho con, nếu con muốn về thăm nhà mẹ thì cứ đi thăm, muốn ở lại ít hôm thì mẫu thân bảo Nam Hương và quản sự đưa con đi, ở mấy ngày rồi lại đón con về.”
Lục Cẩm Dao đáp: “Cảm ơn mẫu thân, con định cuối tháng quay về xem sao.”
Nếu có thể ở lại vài hôm thì không gì tốt bằng.
Lục Cẩm Dao có qua có lại: “Con dâu sẽ cho người đi nghe ngóng chuyện của Minh gia. Con dâu cảm thấy Ngũ đệ vào sinh ra tử, yên nhà giữ nước, hoàng thượng sẽ không để công thần thất vọng. Dẫu sao đi nữa, nhà chúng ta không có dính dáng đến đảng của Tứ hoàng tử, nên người bớt lo.”
Nghe Lục Cẩm Dao nói vậy, tim Trịnh thị dần dần yên ổn lại.
Sau khi quay về chính viện, bà gọi Hàn thị tới nói chuyện một lúc. Hàn thị trừng phạt mấy kẻ ăn nói luyên thuyên nên sẽ không còn nha hoàn bàn luận chuyện này nữa.
Tối ngày hai mươi ba tháng bảy, lúc quay về, Khương Đường lại trông thấy một tờ giấy dưới giường, bên trên chỉ viết mấy chữ.
Là giả, cẩn thận.
Viết dưới cùng là Cố Kiến Sơn.
Khương Đường đốt sạch tờ giấy, rồi chạy về Yến Kỉ Đường. Lúc này chưa được nghỉ, ở Yến Kỉ Đường vẫn còn nhiều nha hoàn. Buổi tối Lục Anh trực đêm nhưng hôm nay nàng ấy đau bụng nên năn nỉ Bội Lan trực thay cho nàng ấy một đêm.
Khương Đường: “Hôm qua Bội Lan vừa trực rồi, thế này đi, ta thay ngươi.”
Khương Đường đến nơi này chưa trực đêm bao giờ, lúc Tinh Tương còn ở đây thì có mấy người thay nhau luân phiên, căn bản là sẽ không gặp nguyệt sự, hôm nay lại đúng lúc, ngày nghỉ tháng này của Lục Anh vẫn còn dùng.
Nàng trông nom Yến Kỉ Đường, sợ rằng buổi tối xảy ra chuyện gì.
Sức lực của nàng khỏe hơn đám Lục Anh, nồi sắt hay dao thái đều có thể cầm được.
Lục Anh vui sướng đồng ý, bàn giao với Khương Đường chuyện trực đêm cần làm gì, rồi yên tâm quay về.
Người cùng trực đêm là Nguyệt Vân, Khương Đường nấu bữa khuya cho Lục Cẩm Dao, bàn bạc với nàng ấy chuyện canh nửa đêm đầu, Nguyệt Vân vui vẻ đồng ý.
Cổng viện Yến Kỉ Đường đã khóa, ngồi ở cửa nhĩ phòng có thể trông thấy ánh đèn hơi vàng bên ngoài.
Khương Đường cẩn thận với động tĩnh bên ngoài, không biết có phải ảo giác hay không mà cứ cảm thấy góc Đông Bắc có động tĩnh.
Góc Đông Bắc chính là Yến Hồi Đường.
Khương Đường không yên lòng, đi ra phòng chính bên ngoài nghe ngóng, trong phòng lặng thinh, nàng lại đi đến trước cửa viện len lén nhìn qua khe cửa.
Bóng cây bên ngoài đổ xuống mặt đất, gió đêm tĩnh mịch ấm áp, đúng lúc Khương Đường khe khẽ thở phào, định bụng quay về thì góc Đông Bắc truyền đến một đợt âm thanh đao kích va nhau, ngay sau đó là ánh lửa rực sáng cả chân trời, toàn bộ đèn của phủ Vĩnh Ninh hầu lục tục sáng lên.
Updated 229 Episodes